Wednesday, March 16, 2016

Chăm Sóc Trẻ Chậm Nói

Trẻ đến 3 tuổi mà chưa biết nói thì có thể nghi ngờ trẻ bị mắc bệnh tự kỉ, tuy nhiên không phải chậm nói là bị tự kỷ, cần thêm các triệu chứng điển hình để xác định. Phần lớn nguyên nhân trẻ chậm nói là do rối loạn cảm xúc và tâm lý trẻ có vấn đề, các bậc phụ huynh phải quan tâm chăm sóc trẻ chậm nói đúng cách để trẻ có thể phát triển bình thường.
Trẻ 3 tuổi đã có thể giao tiếp tốt bằng ngôn ngữ; ông bà ta có câu: “Thỏ thẻ như trẻ lên ba”. Nếu quá tuổi này mà trẻ chưa có khả năng trao đổi những điều thông thường nghĩa là đã bị chậm nói.
Hướng dẫn cách chăm sóc trẻ chậm nói đúng phương pháp để trẻ phát triển bình thường trở lại phần 1
Trung bình trẻ 1 tuổi có thể sử dụng được khoảng 10 từ ngữ; lên 1 tuổi rưỡi có khoảng 30-40 từ. Từ 1 tuổi rưỡi tới 2 tuổi, vốn từ của trẻ tăng lên rất nhanh: khoảng 300 từ; từ 2 tuổi đến 2 tuổi rưỡi: trên 500 từ. Cuối năm thứ 3, vốn từ có thể đạt tới 1.200-1.500 và trẻ có thể trao đổi được bằng lời nói những điều thông thường trong sinh hoạt.
Đó là khả năng của những trẻ được phát triển trong “môi trường ngôn ngữ” tốt (cha mẹ chăm trò chuyện với trẻ, gia đình đông anh chị em, được gửi vườn trẻ…). Những trẻ ở vùng cao, vùng sâu, ít được tiếp xúc thì ngôn ngữ thường kém phát triển hơn. Những trẻ đẻ non, còi xương, thể tạng yếu đuối, suy dinh dưỡng… cũng thường chậm nói, đi kèm với chậm mọi phát triển về vận động khác (lẫy, bò, đi…).
Với trẻ chậm nói, cần phân biệt 2 khả năng về ngôn ngữ. Nếu trẻ vẫn hiểu được lời nói (chỉ đúng những gì ta hỏi như “tai đâu, mắt đâu…” và thực hiện đúng những mệnh lệnh giản đơn như lấy mũ, dép) thì đó chỉ là chậm nói đơn thuần. Nếu được giúp đỡ tốt, những trẻ này có thể phát triển lời nói rất nhanh để không bị chậm trễ về mặt ngôn ngữ khi đến tuổi đi học.
Ngược lại, những trẻ bị chậm cả diễn đạt lẫn cảm thụ ngôn ngữ thường có căn nguyên nghe kém hoặc chậm khôn; việc giúp đỡ sẽ khó khăn hơn nhiều. Trẻ nhất thiết phải được thầy thuốc chuyên khoa tai khám, đo sức nghe và đo chỉ số IQ.
Trong quá trình học nói, trẻ cần có sức nghe hoàn hảo để ghi nhận được chính xác các âm thanh của lời nói, có trí tuệ tốt để phân biệt và ghi nhớ mối liên hệ giữa khái niệm và tên gọi của nó. Mặt khác, khả năng phát âm của trẻ còn phụ thuộc vào sự thuần thục dần của hệ thần kinh (lời nói đòi hỏi sự hiệp đồng tinh tế nhiều cơ của bộ máy phát âm và cấu âm), không thể đốt cháy giai đoạn.
Các chỉ số của phát triển ngôn ngữ ở trẻ vào giai đoạn học nói (từ 1 tuổi đến 3 tuổi) phản ánh rất đầy đủ sự phát triển đồng bộ về thể chất và trí tuệ của trẻ trong giai đoạn này. Vì vậy, các bậc cha mẹ cần hết sức quan tâm theo dõi.

Cha mẹ cần chú ý tới hành vi của con

Trả lời về vấn đề này, bác sĩ Nguyễn Thị Anh Thư (Khoa Nhi, Bệnh viện Việt Pháp) cho rằng cha mẹ nên chú ý đến hành vi của con, nếu thấy con mình có bất kỳ những dấu hiệu bất thường nào về ngôn ngữ, về phản xạ, hãy nhanh nhất đưa con tới bệnh viện để được các bác sĩ có chuyên môn can thiệp kịp thời.

Dấu hiệu của trẻ tự kỷ

Trên 10 tháng tuổi, bé ngoan, khó ngủ, bé thu mình, không quan tâm đến người khác, một mình mình một thế giới, không thích chơi với bạn cùng lứa tuổi, tránh tiếp xúc tối đa, khó khăn khi tham gia các trò chơi, thích thú khi chơi đồ chơi một cách khác thường, hung hăng, dễ tự làm tổn thương bản thân, không phản ứng với tiếng gọi, ánh mắt đờ đẫn, không biết đáp lại khi có người gọi tên, mất kỹ năng ngôn ngữ hoặc xã hội….
Nguyên nhân gây nên hội chứng này có thể do các yếu tố sinh học hoặc môi trường, hoặc cả hai, bao gồm cả các yếu tố nhiễm khuẩn lúc mang thai, các khiếm khuyết của hệ thống miễn dịch, gen.

Dấu hiệu trẻ bị điếc bẩm sinh:

Trẻ từ 4 tháng tuổi trở lên không có bất kỳ phản ứng nào với âm thanh lạ (dù rất to); không trao đổi ê a, không quay đầu lại với người thân (do bé không nghe được hoặc nghe thấy âm thanh vô cùng nhỏ); phát triển mạnh ngôn ngữ nét mặt, điệu bộ, cử chỉ (vì không thể biểu lộ mình bằng lời nói); bé không thích đập, ném đồ chơi (thường những bé có thính lực tốt, bé sẽ rất thích nghe những âm thanh của những vật phát ra)…
Nguyên nhân khiến bé bị điếc bẩm sinh có thể do di truyền từ người thân trong gia đình; do trong quá trình mang thai và sinh nở người mẹ gặp bất thường (sinh non, đẻ khó, bé bị ngạt trong quá trình ra đời); hoặc do bé bị bệnh viêm tai, viêm màng não, sởi, quai bị…
Bên cạnh đó, có rất nhiều em bé bị mắc bệnh về tâm lý như rối loạn tâm lý, rối loạn hành vi, chậm nói; hay điếc bẩm sinh… bị nhầm là tự kỷ hoặc ngược lại.
Bác sĩ Anh Thư nhấn mạnh, đúng là những biểu hiện của bệnh tự kỷ và điếc bẩm sinh có sự giống nhau như chậm nói; sống thu mình song những bé tự kỷ không bị điếc, bé vẫn nghe thấy những âm thanh, tiếng ồn phát ra xung quanh mình nhưng bé “lờ đi”, chắc chắn nếu có tiếng động bất ngờ, bé tự kỷ vẫn bị giật mình.
Còn với em bé không may bị điếc bẩm sinh thì khả năng nghe và phản ứng lại với âm thanh là hoàn toàn không có.
Trẻ chậm nói thường sống khép kín vì không biết chia sẻ thế nào với người khác, hoặc cũng có thể tìm cách “gây hấn” bằng những hành động “cào cấu”, điều này càng dễ bị hiểu lầm là trẻ tự kỷ.
Tóm lại, cha mẹ cần chú ý tới sự phát triển của con theo từng mốc giai đoạn cụ thể, khi phát hiện ra có những dấu hiệu lạ về hành vi, ngôn ngữ của con, cha mẹ cần bình tĩnh đưa con tới bệnh viện để thăm khám.
Hướng dẫn cách chăm sóc trẻ chậm nói đúng phương pháp để trẻ phát triển bình thường trở lại phần 2

Tự kỷ là hiện tượng rối loạn về tương tác xã hội, rối loạn về giao tiếp và có hành vi lặp đi lặp lại. Việc chẩn đoán thường dựa vào quá trình phát triển tâm sinh lý của trẻ. 

Ví dụ:

Nếu cha mẹ chú ý có thể phát hiện bệnh khi trẻ mới ở tháng đầu sau khi sinh. Đối với những đứa trẻ bình thường, chúng có thể nghe và ngửi được mùi của mẹ, khi được mẹ ôm vào lòng sẽ có biểu hiện khoan khoái dễ chịu nhưng trẻ tự kỷ thì không tiếp nhận được bằng các giác quan.
Thường thì trẻ 3 tháng có thể tự ngóc đầu được nhưng trẻ tự kỷ không thể làm như vậy, khi được bồng bế cơ thể như đờ ra.
Lúc 6 tháng tuổi, trẻ tự kỷ sẽ có biểu hiện quá ngoan hoặc quá hung hăng, không cười, nhìn xa xôi, không bám lấy mẹ (ai bế cũng được), không biết cách ôm ấp lại mẹ, không biết phát âm những tiếng đơn giản như a, à, ba… Trẻ bình thường ở độ tuổi này rất thích đồ chơi nhưng trẻ mắc bệnh tự kỷ lại không chú ý đến.
Khi được 1 tuổi, trẻ tự kỷ vẫn không tiếp xúc bằng mắt, không biết bắt chước, thờ ơ với tiếng động.
Lên 2 tuổi, trẻ có những vận động bất thường như đi bằng đầu ngón chân, ngồi hay lắc người, vặn xoắn tay chân… Ngôn ngữ lặp lại, tiếp xúc kém, tình cảm nghèo nàn, vệ sinh chưa tự chủ…
Trước đây, các nước trên thế giới điều trị bệnh tự kỷ như bệnh tâm thần. Ngày nay hướng điều trị mới cho các trẻ mắc bệnh này là chữa bệnh bằng tâm lý. Cụ thể:
  • Xây dựng lại cấu trúc tâm lý và nhân cách cá nhân tùy từng trường hợp cụ thể, giúp trẻ trở lại đúng khung tâm lý của trẻ.
  • Xây dựng và phát triển mối quan hệ giữa trẻ với gia đình (đặc biệt là với mẹ), quan hệ giữa trẻ với giáo viên, với bạn bè và môi trường xung quanh để thiết lập mối quan hệ tương tác xã hội.
  • Tập cho trẻ có ý thức về bản thân và tự khẳng định bản thân.
  •  Tập phát triển ngôn ngữ phù hợp với khả năng của trẻ.
Những Nguyên Nhân Làm Cho Trẻ Chậm Nói
1. Quá chiều con, không cho con có cơ hội được nói
Đây là lỗi hay gặp của mẹ làm ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp của trẻ, là nguyên nhân trẻ chậm nói. Ai cũng biết rõ, khi vốn từ vựng của bé chưa được hoàn thiện, nên để giao tiếp với mọi người xung quanh, con thường phải dùng hành động, cử chỉ để biểu đạt mong muốn của mình.
Khi  muốn uống sữa hay muốn lấy bất cứ một thứ gì, trẻ sẽ tự tay mình chỉ hoặc sẽ cầm tay mẹ và hướng đến các đồ vật đó. Lúc đó, các mẹ sẽ hiểu được mong muốn của con và nhiều người đã không ngần ngại mà ngay lập tức đi lấy giúp con. Hành động này nếu lặp lại nhiều lần sẽ là nguyên nhân sâu xa khiến con chậm nói. Thay vì vội vàng giúp con, các mẹ nên gợi chuyện để hỏi con “con cần gì nào?”, “đó là cái gì nhỉ?”… Gợi câu hỏi cho con là một cách tốt để trẻ có phản ứng lại trước những lời nói của mẹ.
Việc chiều con, nhanh chóng đáp ứng mọi yêu cầu, không chỉ ảnh hưởng đến khả năng ngôn ngữ, mà còn tác động xấu đến tính cách của trẻ. Một khi con biết mọi yêu cầu của mình sẽ nhanh chóng được đáp ứng, chúng sẽ sinh ra nhiều yêu cầu và đòi hỏi, dễ hình thành thói phụ thuộc và lười vận động.
2. Cho trẻ xem tivi quá nhiều

Tivi, máy tính hay mọi thiết bị truyền thông thông tin đều có một tác dụng đó là giúp trẻ học hỏi và tiếp thu được những điều mới lạ xung quanh cuộc sống. Không những vậy, các thiết bị này còn được nhiều mẹ biến thành “cô trông trẻ” hữu hiệu, bởi họ nhận thấy rằng mỗi khi cho bé ngồi xem tivi là y như rằng con sẽ ngoan ngoãn hơn. Và những lúc như vậy là thời điểm tốt để mẹ có thể yên tâm làm các công việc khác.
Tuy nhiên, nếu mẹ quá lạm dụng “cô trông trẻ” này thì sẽ khiến cho bé lười nói chuyện. Khi cho con xem Tivi, bé chỉ được tiếp nhận thông tin một chiều, bởi lúc đó bé chỉ con có cơ hội nghe nhưng lại không có cơ hội để nói. Không những ảnh hưởng đến khả năng ngôn ngữ của trẻ, việc xem tivi quá nhiều cũng là nguyên nhân khiến mắt con không được khỏe, dễ dẫn đến tình trạng cận thị, ảnh hưởng nghiêm trọng đến vấn đề học tập sau này.
Thay vì để con ngồi hàng giờ trước tivi thì mẹ hãy dành thời gian nhiều hơn để cùng con chuyện trò. Khi được giao tiếp với mẹ, bé sẽ đáp ứng được cả hai nhu cầu đó là nghe và nói.
Có một cách để cho bé xem tivi và vẫn có thể kích thích được ngôn ngữ của con là mẹ hãy ngồi xem cùng con. Mẹ vừa xem với trẻ vừa diễn giải các nhân vật, về cái sai cái đúng cho trẻ nghe và hiểu, giúp trẻ có phản xạ ngôn ngữ tốt hơn.
3. Lười nói chuyện với con
Đối với trẻ sơ sinh, vốn từ ngữ của con hầu như là chưa được hình thành. Nên khi các mẹ giao tiếp với con sẽ chỉ là một cuộc độc thoại đơn lẻ từ phía mẹ, bởi có thể mẹ sẽ nói rất nhiều nhưng đáp lại chỉ là những tiếng ê,a. Trong hoàn cảnh này, nếu các mẹ nhanh chán mà không kiên trì để duy trì các cuộc nói chuyện với con thì sẽ là nguyên nhân khiến trẻ chậm nói.
Dù bé mới bập bẹ, ê a… thì cha mẹ vẫn nên nói chuyện liên tục cùng bé. Khi còn nhỏ, việc bé tăng vốn từ vựng và dần biết nói sẽ thông qua một cách duy nhất là lắng nghe người lớn nói chuyện với nhau. Không những vậy, việc trẻ sơ sinh được lắng nghe giọng nói của mẹ ngay từ đầu sẽ là cách tốt nhất để con ghi nhớ mẹ.
Mỗi ngày, mẹ hãy dành thời gian để hàn huyên cùng con, dù cho con có không hiểu những điều mẹ nói nhưng đây cũng là khoảng thời gian vàng để mẹ con có thể được ở cạnh nhau.
4. Hạn chế cho trẻ được tiếp xúc với bên ngoài

Nhiều bố mẹ lo ngại những mặt xấu của xã hội hiện nay như bắt cóc, học theo thói hư tật xấu… có thể ảnh hưởng đến con mình, nên hạn chế cho trẻ ra ngoài chơi. Thay vì cho con được ra ngoài vui chơi với bạn bè, các mẹ chấp nhận nhốt con trong nhà một mình và chỉ chơi với các đồ chơi vô tri như búp bê, xe đồ chơi, xếp hình…Thế nhưng những đồ chơi này lại không phải những gì trẻ thật sự cần lúc này. Chính điều này là nguyên nhân trẻ chậm nói.
Các mẹ cần biết rằng, trẻ cần có một môi trường vui vẻ, hòa đồng, có bạn bè, môi trường tự nhiên để hòa nhập. Ở trong môi trường như vậy, trẻ có nhiều bạn bè nên đương nhiên sẽ nảy sinh nhu cầu muốn giao tiếp, muốn nói chuyện, muốn giao lưu. Nếu không cho trẻ đi ra ngoài nhiều, vui chơi với bạn bè trẻ chậm nói hơn hoặc nguy hiểm hơn sẽ vô tình dồn trẻ vào bệnh tự kỷ.
Các ông bố bà mẹ đừng quá bao bọc con mà khiến con mắc bệnh hay nặng hơn là dễ trở thành những đứa trẻ thụ động. Chính vì vậy, người lớn nên tạo cơ hội cho con được giao lưu, gặp gỡ nhiều bạn nhỏ cùng tuổi. Điều này sẽ giúp trẻ nhanh biết nói.
5. Dạy cho con những từ ngữ khó ngay từ đầu
Khi trẻ mới tập nói, mẹ đã vội vàng cho con tiếp thu những từ ngữ khó sẽ tạo khó khăn cho con. Bởi khẩu hình của con chưa hoàn thiện, việc phải nói những từ quá khó làm các con không nói theo được.
Do đó, khi dạy bé nói, không nên dùng những từ khó khăn, phức tạp, mà nên dùng những từ đơn giản, đúng quy tắc ngôn ngữ để dạy bé. Phải kết hợp một vài từ giúp bé gọi người thân, cơ thể, thức ăn, đồ chơi, phối hợp với những từ ngữ dùng trong sinh hoạt hàng ngày để dạy trẻ.
    Trong việc dạy trẻ, một điều rất quan trọng là cần kết hợp giữa SỰ VUI THÍCH và YÊU CẦU. Nếu muốn trẻ học tốt, trẻ phải có sự vui thích trong khi học, vì vậy việc hướng dẫn từ ngữ nên thông qua các trò chơi là chính, phải biến đổi cả những hoạt động bình thường như ăn uống…cũng có thể trở thành những trò chơi để trẻ luôn luôn đáp ứng trong sự tự nguyện vì vui thích và mong muốn chứ không phải đáp ứng vì ép buộc hay miễn cưỡng trong sự lo lắng.

    Nguyên tắc can thiệp khi trẻ Chậm nói
    Chậm nói là một dấu hiệu xuất hiện trong nhiều rối nhiễu tâm lý khác nhau, từ tình trạng chậm khôn cho đến trẻ có hội chứng Tự kỷ đều có tình trạng chậm nói, nhưng sự rối loạn ngôn ngữ ở trẻ tự kỷ thường đa đạng và phức tạp hơn.
    Trẻ tự kỷ có thể nói rất rõ, nhưng lại là những từ vô nghĩa hay không đúng ngữ cảnh, như khi ngó ra ngoài đường nhìn những chiếc xe qua lại, trẻ lại thốt lên: Cái ly đâu rồi?
    Còn một trẻ chậm nói do tình trạng chậm khôn là do trẻ không đủ vốn từ để diễn tả, chúng ta sẽ có cảm nhận là trẻ rất muốn nói nhưng lại không biết nói như thế nào, hoặc chỉ có thể nói được từng từ một.
    Vì vậy, nếu chỉ dựa trên một biểu hiện là chậm nói để kết luận đó là một trẻ Tự Kỷ hay đó là trẻ Chậm khôn là một điều vội vã, cần phải có sự quan sát, chẩn đoán đầy đủ và kỹ lưỡng hơn.
    Hướng dẫn cách chăm sóc trẻ chậm nói đúng phương pháp để trẻ phát triển bình thường trở lại phần 3

    Nguyên lý chăm sóc trẻ

    Việc chăm sóc cho trẻ chậm nói là một tiến trình lâu dài, cần phải có một kế hoạch cụ thể, qua đó cha mẹ phải tìm ra được những gì mà trẻ có thể làm, ta xem trẻ đang cố gắng giao tiếp bằng cách nào: Dùng điệu bộ, từ hay âm. Khi biết trẻ có ý định giao tiếp ta hãy giúp trẻ có khả năng giao tiếp với từng loại thông tin khác nhau. Khi trẻ chỉ có phản ứng, ta vẫn chấp nhận phản ứng của trẻ nhưng cố gắng giúp trẻ chủ động hơn trong sự giao tiếp.
    Trong trường hợp trẻ tỏ ra không biết hay không muốn giao tiếp, ta cần có những tác động kích thích (ôm ấp, vỗ về, hỏi han, cười, nhìn trẻ) Và khi trẻ đã có phản ứng, hãy khích lệ trẻ để trẻ có thể nói (bằng lời hay bằng dấu hiệu) các nhu cầu của mình.
    Trẻ có thể có những phản ứng đồng ý hay không đồng ý, đôi khi chúng ta cần có những tác động để trẻ phản đối (lấy đồ chơi, bắt trẻ ngưng làm điều mà trẻ thích) nhưng là để quan sát cách biểu lộ bằng hành vi hay ngôn ngữ để phản đối của trẻ chứ không nên kéo dài, hay cố gắng trêu chọc dể trẻ phải phản ứng mạnh hơn.
    Trong cuộc sống, trẻ sẽ có sự quan sát và ghi nhận những hoạt động bằng hình ảnh và ngôn ngữ xảy ra chung quanh mình. Vì vậy bố mẹ cần tích cực trong việc :
    • Chào hỏi nhau, chào hỏi bạn bè, họ hàng, con cái … để trẻ học và hiểu ý nghĩa các lời chào hỏi này. Và thường xuyên tác động khi gặp trẻ bằng những câu chào hỏi.
    • Mô tả, nói ra những nhu cầu của trẻ, những yêu cầu và hành động của bố mẹ, của những người xung quanh, giúp trẻ tăng cường vốn từ, sự hiểu biết.
    • Khi chơi với trẻ, hãy thường xuyên đặt câu hỏi và tự trả lời (vì trẻ sẽ không thể trả lời ngay, hay chỉ có thể phản ứng bằng hành động: gật đầu, lắc đầu, đẩy ra, đưa tay tóm lấy… )
    • Thỉnh thoảng có thể dấu một món đồ đi và đặt ra câu hỏi: Con búp bê đâu rồi ?
    Như vậy, việc lập một kế hoạch tập nói cho trẻ phải dựa trên các yếu tố sau:

    • Nói với trẻ, diễn giải ra bằng ngôn ngữ nói càng nhiều càng tốt.
    • Nói và giải thích, hỏi và trả lời một cách thật cụ thể.
    • Tạo ra mọi cơ hội trong mọi thời điểm và ở mọi nơi.
    • Chú trọng yếu tố vui thích trong mọi yêu cầu.

    Xây dựng quan hệ xã hội giúp trẻ thích giao tiếp

    Phát triển sự quan hệ với mọi người là một yêu cầu thiết để giúp trẻ học cách giao tiếp. Từ nhỏ, trẻ chậm phát triển ngôn ngữ thường có sự hạn chế trong việc giao tiếp với mọi người, đặc biệt là với những người thân. Vì vậy trẻ cần được tăng cường các hoạt động tiếp xúc gần gũi như trong các trò chơi, cười đùa, bồng ẵm, gây tiếng động và tiếp xúc qua ánh mắt, đặc biệt là đối với bố mẹ. Bố mẹ có thể tạo ra mối quan hệ thông qua một hoạt động cùng nhau (ăn chung, chơi chung, làm một việc gì đó trong nhà chung với nhau) hay thông qua một vật (cùng trò chuyện qua một câu chuyện kể với những con búp bê, con rối – cùng nhìn về một vật, một hình ảnh nào đó) Cùng xem tranh với trẻ, chỉ cho trẻ các hình ảnh và nhân vật với lời thuyết minh ngắn gọn rõ ràng, cụ thể và đơn giản.
    Ngay cả trong các hoạt động bình thường, khi thấy trẻ có vẻ muốn hỏi (đưa mắt nhìn) ta nên nói cho trẻ biết công việc mình đang làm: Mẹ đang nấu cơm, đang soạn bài, đang xếp quần áo, đang đánh vi tính … Khi trao đổi, cha mẹ nên nói một cách chậm rãi, kiên nhẫn chờ trẻ trả lời dù rất ngắn với thái độ vui vẻ, khích lệ. Bố mẹ nên tìm ra các hoạt động đơn giản trong khi chơi với trẻ để dạy như lần lượt tung quả bóng lên – xây các tháp gỗ bằng cách lần lượt đặt các mẩu gỗ lên – lần lượt vỗ tay …
    Bắt chước là một kỹ năng thiết yếu trong việc giao tiếp, trẻ có thể bắt chước hành động (ngôn ngữ không lời) và tiếng nói. Với trẻ bắt chước bằng hành động là dễ nhất, và thông qua những hành động mà trẻ có khả năng bắt chước, ta có thể đánh giá khả năng tiếp thu của trẻ. Ta có thể kích thích hay tập cho trẻ bắt chước bằng cách bắt chước chính những động tác của trẻ
    Ví dụ: Trẻ dơ tay sờ mũi, ta cũng sờ mũi trẻ sẽ bắt chước lặp lại hành vi trên, điều này sẽ tạo ra sự chú ý cho trẻ, từ đó chuyển sang hành động khác như sờ tai, trẻ sẽ làm theo…
    Với một số trẻ tỏ ra thờ ơ trong việc bắt chước, ta hãy kiên nhẫn tập cho trẻ lập lại những động tác trên bằng cách nắm lấy tay trẻ sờ vào mũi, vào tai của ta – Sự tiếp xúc trực tiếp giữa hai cơ thể là điều kích thích cảm giác nơi trẻ . Khi trẻ đã bắt đầu có hứng thú trong việc bắt chước các hành động, ta sẽ chuyển dần sang sự bắt chước các âm thanh. Cũng bắt đầu với âm thanh mà trẻ tự phát ra hay tự bắt chước. Việc khen thưởng và động viên bằng hành động (vuốt ve, xoa đầu, ôm vào lòng, cười hài lòng) hay bằng lời nói ( khen ngợi) là điều quan trọng, cần tiến hành thường xuyên trong việc tập cho trẻ các hành vi bắt chước.
    Thường trẻ thích bắt chước tiếng súc vật (gà gáy, chó sủa …) tiếng xe cộ, máy bay … trước khi nói được. Hoạt động này, nếu có điều kiện nên diễn ra với sự tham gia của các trẻ khác hay với các người thân trong gia đình – Bố me, anh chị cùng tham gia, cùng phát âm (trong những trò chơi) để trẻ được kích thích, khích lệ phát ra lại các âm thanh đã nghe được.
    Ta hãy hình dung một người nước ngoài đến Việt Nam, hay khi đi ra nước ngoài mà không biết một ngoại ngữ nào, điều đó cũng giống như một đứa trẻ, lớn lên giữa một biển âm thanh, nghe được tất cả nhưng không hiểu đó là gì! Vì thế trẻ phải được tạo điều kiện để được lắng nghe, và được giải thích với những hình ảnh cụ thể, sinh động.
    Khi ta nghe từ “mèo” ta có ngay hình ảnh một con thú nhỏ, có bộ lông mịn, hai tai nhọn, đôi mắt long lanh, cái đuôi ngoe nguẩy, và tiếng kêu meo meo rất đặc trưng. Đó chính là những ảnh có trong tâm trí của ta, do đã được ghi nhận qua nhiều lần tiếp xúc với con mèo thực. Tuy nhiên, cũng có những con thú đã tuyệt chủng như khổng tượng, khủng long… nhưng khi nhắc đến các con thú này, ta vẫn có được những hình ảnh của chúng, do đã được xem qua trên phim ảnh, trong các câu chuyện có hình ảnh minh họa … Vì vậy, đó cũng là một phương tiện giúp cho trẻ hình thành được những hình ảnh trong tâm trí, mà ta gọi đó là những hình ảnh trí tuệ (mental pictures). Tuy nhiên, để làm được việc ghi nhận những hình ảnh, gắn liền nó với một danh từ nào đó, thì khả năng trí tuệ của trẻ phải phát triển đến một trình độ nhất định, và điều đó chỉ có thể có được qua tập luyện.
    Ta nên biết rằng trẻ nhỏ dưới 1 tuổi ít khi nhìn theo một vật đang rời xa khỏi tầm mắt của chúng, vì với trẻ, hình ảnh đó không còn tồn tại nữa. Để tập cho trẻ khái niệm tồn tại, thì một trò chơi đơn giản mà rất nhiều bố mẹ đã từng chơi, đó là trò “ú òa” hay trốn tìm. Bố mẹ sẽ dùng tay hay cái quạt giấy, bìa sách, cái gối, cái mền.. che mặt mình lại, dấu người mình đi hay che một vật nào đó, rồi mở ra cho trẻ thấy, rồi lại che đi … điều này được lập đi lập lại, và sẽ tạo cho trẻ một nhận thức về sự tồn tại.
    Từ khả năng này, cần phải tập cho trẻ phân biệt sự khác nhau giữa các vật, bằng cách cho trẻ chơi (tiếp xúc) với các vật, không chỉ đơn thuần là những món đồ chơi, mà có thể đó là những vật thực (trái banh, cái muỗng, cái ly, cái bàn chải …. ) trẻ có thể cầm, nắm ,đập, xé, nhai thử … Từ đó trẻ sẽ khám phá ra sự khác biệt về cảm giác, trọng lượng, âm thanh, mầu sắc … Và khi trẻ đang khám phá, thì ta có thể gọi tên các vật đó, nhiều lần trẻ sẽ có khái niệm, biết được món đồ đó, và có thể nói lại vào một thời điểm thích hợp.
    Tiến trình can thiệp cho trẻ Chậm nói là một chuỗi các hoạt động kéo dài từ 6-12 tháng hay hơn nữa, vì vậy sự kiên nhẫn và lạc quan là điều quan trọng nhất.

    CHĂM SÓC RĂNG MIỆNG CHO BÉ


    Phụ huynh cần phải chăm sóc răng miệng cho bé ngay từ những năm tháng đầu đời.

    Chăm sóc răng miệng của trẻ đúng cách ngay từ đầu và sau đó dạy cho trẻ biết tự chăm sóc, vệ sinh răng miệng.


    1. Cho bé làm quen với việc làm sạch miệng trước khi bắt đầu mọc răng
    Sau khi cho ăn, cần nhẹ nhàng lau sạch nướu răng của trẻ bằng khăn ẩm quấn quanh ngón tay.
    2. Bắt đầu chăm sóc răng cho trẻ ngay khi mới bắt đầu mọc
    Một điều chắc chắn là răng sữa sẽ không tồn tại mãi, tuy nhiên nó có tầm quan trọng như răng vĩnh viễn sẽ mọc sau này. Răng sữa sẽ giữ không gian mà răng vĩnh viễn cần để có thể mọc đúng vị trí, đồng thời cũng giúp trẻ có thể nói và ăn. Vì thế, việc giữ vệ sinh răng sữa là rất cần thiết.
    Dấu hiệu đầu tiên của sâu răng chính là răng ố màu. Cách tốt nhất để tránh sâu răng ở trẻ nhỏ là không bao giờ để bé đi ngủ với một chai sữa hoặc nước quả đang bú dở.3. Tìm kiếm những lỗ sâu răng
    Nếu bé có thói quen đi ngủ khi đang bú bình thì sẽ không thể tẩy rửa răng của mình. Điều đó có nghĩa là những thức uống ngọt (sữa thường có chứa nhiều đường) đó sẽ bao phủ răng trẻ trong nhiều giờ đồng hồ. Nếu bé cần có bình mới ngủ yên được, bạn nên thử cho trẻ một bình chỉ chứa nước lọc.
    4. Cho trẻ uống nước sau mỗi bữa ăn
    Chỉ cần một ít nước sau mỗi bữa ăn cũng có thể rửa sạch răng cho bé, loại bỏ những thức ăn thừa trong miệng.
    5. Đảm bảo cung cấp đủ flour cho trẻ
    Ngoài việc sử dụng kem đánh răng có flour, trẻ nên được cung cấp flour thông qua cả nước uống. Flour vô cùng quan trọng trong việc phòng chống sâu răng và thường được thêm vào thành phần của các loại nước uống vì lý do này.
    6. Đưa trẻ tới nha sĩ
    Nhiều cha mẹ đánh đồng lần đi tới nha sĩ đầu tiên là khi đưa trẻ tới nhổ răng. Nên đưa trẻ tới nha sĩ khi bé được khoảng 3 tuổi, trừ khi trước đó cháu bị đau răng hoặc có các vấn đề về răng miệng cần đến gặp nha sĩ. Thậm chí chuyến đi đó chỉ là để trẻ ngồi trên ghế, há miệng to và được khen ngợi về việc đã làm tốt như thế nào trong việc tự chăm sóc răng miệng của mình.

    Những Nguyên Nhân Làm Trẻ Biếng Ăn

    1. Bệnh:
    Biếng ăn do bệnh lý Suy dinh dưỡng; nhiễm ký sinh trùng; nhiễm trùng (viêm mũi, viêm họng, viêm amiđan...); nhiễm siêu vi; bệnh lý răng miệng (sâu răng, viêm nướu); loạn khuẩn đường ruột,...
    Biếng ăn sinh lý. Trẻ vẫn khỏe mạnh nhưng tự nhiên ăn ít đi trong vài ngày đến vài tuần. Các thời điểm này thường trùng với những lúc bé biết lật, ngồi, đứng, đi... Sau đó trẻ ăn uống lại bình thường.

    2. Do sai lầm của cha mẹ: chế độ ăn sai

    Biếng ăn do sai lầm trong chế biến thức ăn và thời gian chuyển tiếp chế độ ăn. Sai lầm trong chế biến thức ăn cho trẻ: Hầm khoai tây, cà rốt, củ dền, đậu, thịt... xay nhuyễn và cho bé ăn hết ngày này qua tháng nọ gây cảm giác ngán; chỉ cho trẻ ăn nước rau, nước thịt, không ăn xác; lâu ngày dẫn đến thiếu các chất dinh dưỡng; cho trẻ ăn thức ăn xay nhuyễn kéo dài đến 2, 3 tuổi; pha bột vào sữa, pha sữa đặc (so với hướng dẫn), pha sữa bằng nước cháo hoặc nước hầm đậu, hầm xương... đều làm trẻ khó tiêu hóa; pha bột quá đặc khi trẻ mới tập ăn dặm. Thời gian chuyển tiếp chế độ ăn không phù hợp: Ăn dặm quá sớm, trước khi trẻ tròn 4 tháng; ăn cơm quá sớm, trong khi răng trẻ chưa đủ để nhai cơm.
    - Ăn dặm sai: sớm, đặc quá, loãng quá, nhiều quá, thành phần 4 chất sai, ăn cơm sớm quá
    - Thấy bé thích ăn món gì thì cho ăn quá nhiều
    - Phụ huynh cần tìm hiều giai đoạn nào bé ăn được gì


    3.Ham chơi: ham chơi quên đói
    - Coi lại không gian khi bé ăn
    - Thường gặp khi chuyển mẹ chăm sang tự ăn
    - Ăn đúng giờ, không uống nước có ga giữa bữa ăn, dứt khoát, đừng kéo dài bữa ăn quá 30 phút


    4. Do yếu tố tâm lý:

    - Thay người chăm sóc, người ngoài chăm ăn
    - Phụ huynh đánh vật, ép quá
    - Phụ huynh stress con stress bò ăn luôn
    - Bình tĩnh chăm - không bàn chuyện khó khăn ăn uống trước mặt bé


    5. Sợ:
    - Ép uống thuốc, ép hút mũi sau đó thấy đưa gì vô mặt là hoảng
    - Sợ các dụng cụ cho bé ăn - đổi loại có màu sắc và hình dạng làm bé thích hơn
    - Có thể bé không chịu không gian, mùi nhựa, mùi vải, mùi thức ăn khi cho bé ăn
    - Không chịu mở miệng khi thấy thức ăn thấy bìnhthấy chén: chờ lúc hơi ngủ gà nữa ngủ nữa thức tập ăn, bú thì trẻ bớt sợ và tập lại từ từ.


    6.
    Biếng ăn do thuốc. 

    Kháng sinh làm rối loạn hệ vi khuẩn đường ruột; dùng quá nhiều vitamin; dùng “thuốc kích thích ăn’’ (tình trạng biếng ăn sẽ tăng nhiều ngay sau khi ngưng thuốc. Cũng cần chú ý là thuốc này chống chỉ định ở trẻ dưới 2 tuổi).
    7. Biếng ăn “của cha mẹ”. 
    Do quá lo lắng về tăng trưởng của con, khi thấy con ăn ít hơn các trẻ cùng lứa tuổi thì nghĩ rằng trẻ biếng ăn mặc dù trẻ vẫn tăng cân và tăng chiều cao tốt.
    8. Biếng ăn do một số nguyên nhân khác. Ít gặp như sau chủng ngừa, sau chấn thương (té ngã...).
    9. Biếng ăn bẩm sinh.
     Có khoảng dưới 5% trẻ sinh ra chỉ ngủ, chơi không bao giờ đòi bú.

    Hướng khắc phục

    - Biếng ăn tâm lý. Cha mẹ cần hết sức bình tĩnh và kiên nhẫn tìm hiểu vì sao trẻ không chịu ăn. Cần tránh các hành vi ép buộc như đè bé ra đổ thức ăn, bóp mũi cho bé nuốt, đánh cho bé khóc để bé nuốt... Khi trẻ bệnh, nếu trẻ khó uống thuốc, cha mẹ hãy trình bày với bác sĩ để bác sĩ cho thuốc dễ uống, không cần phải cho thuốc vào thức ăn để đánh lừa trẻ. Hãy cho trẻ ăn một cách thoải mái, bột, sữa có thể dây vào áo một chút cũng không sao.
    - Biếng ăn do sai lầm trong kỹ thuật chế biến thức ăn và thời gian chuyển tiếp chế độ ăn. Tránh kéo dài thời gian cho trẻ ăn thức ăn xay nhuyễn; tránh cho bé ăn thức ăn đơn điệu, nên đổi món thường xuyên cho bé.
    - Biếng ăn do bệnh. Bổ sung các vi chất dinh dưỡng mà trẻ thiếu; xổ giun định kỳ cho trẻ mỗi 6 tháng; giữ gìn vệ sinh răng miệng; điều trị bệnh nhiễm trùng.
    - Biếng ăn sinh lý Trong giai đoạn biếng ăn sinh lý, các bậc cha mẹ không nên nóng lòng tự ý sử dụng các loại thuốc bổ hoặc thúc ép trẻ ăn. Hãy kiên nhẫn cho trẻ ăn từng bữa nhỏ, thay đổi các món ăn lạ... chờ trẻ ăn trở lại.
    - Biếng ăn do thuốc. Sử dụng các men vi sinh cấy lại vi khuẩn đường ruột hoặc cho trẻ ăn sữa chua; tránh sử dụng thuốc bổ khi không có toa của bác sĩ; tránh sử dụng thuốc kích thích ăn.
    - Biếng ăn bẩm sinh. Đối với các trẻ không đòi ăn bao giờ, cha mẹ phải chủ động cho trẻ ăn theo sự hướng dẫn và theo dõi của bác sĩ dinh dưỡng.

    HƯỚNG DẪN CHĂM SÓC TRẺ SƠ SINH


    1. Massage - da tiếp da: 
    Hiện nay các chuyên gia đều công nhân có tác dụng tốt cho trẻ sơ sinh nhưng phải rửa tay trước khi tiếp xúc với trẻ

    2. Ẳm cẩn thận đỡ đầu và cổ, không lắc nhiều, không thô bạo
    3. Quấn khăn không nên chặt quá cũng không lỏng lẻo quá, chú ý cổ và đầu cho phép thở thoải mái
    4. Thay tã: 


    - Thường là 1 ngày 10 cái, loại tả vải hay dùng 1 lần, nên dùng tã vải quấn cho đỡ hăm.
    - Chuẩn bị đầy đủ rồi hãy thay: tả mới, khăn, giấy mềm ướt... chọn nơi an toàn ,
    Nên lau đủ sạch , chờ đủ khô hãy bịt tả mới. Nếu hăm thì dùng vài loại creme hoặc phấn.
    - Thay càng sớm càng tốt khi bé ị
    5. Tắm:


    - Tùy thời tiết mà tắm, không cần thiết tắm mỗi ngày, tắm nhiều, tắm lâu cũng làm khô da
    - Cũng chuẩn bị đầy đủ dụng cụ tìm nơi an toàn, kín gió rồi hãy tắm , không gấp
    - Dầu tắm gội cũng nên chọn loại chuyên dùng cho trẻ em
    - Tắm bằng cách nhúng bé vài thau nước cần chú ý : nước đủ ấm, không nóng nên thử nước trước khi tắm cho bé, độ sâu của nước trong thau/chậu khoảng 5-7 cm./ Tháo quần áo xong đặt nhanh bé xuống thau nước ấm để tránh bị lạnh, bảo đảm vẫn ẵm cồ và đầu vững, hạ nhanh từ chân đến ngực, dùng nước chế nhẹ nhàng lên người bé, tắm xong ẵm lên trùm khăn ngay
    6. Bú, ợ:
    - Trẻ sơ sinh thì bú theo nhu cầu, thường là ngày ít nhất 8 cữ, thời gian chủ yếu là ngủ, đói mới dậy bú.

    - Bú mẹ hoàn toàn thì mẹ học xem cảm giác xuống sữa, bú tiểu
    - Coi cách ẵm khi bú và ợ
    7 . Ngủ:
    - Ít nhất 16 tiếng, bú đêm là chuyện bình thường, thường
    hơn 3 tháng trẻ mới biết nạp đủ năng lượng ngủ xuyên đêm

    - Chú ý xoay trở đầu bên này xong bên kia cho quen để đầu trẻ được tròn đều
    - Tập phân biệt ngày đêm bằng cách dùng ánh sáng để quen dần, canh ban ngày thủ thỉ khi thức ban ngày cho biết ngày, đêm chỉ bú rồi dỗ ngủ
    8. Đi tiêu: miễn có đi phân xu, bú tốt, ngủ giỏi là an tâm, còn trẻ nhỏ thì ị lung tung các kiểu. tùy theo tình hình phân lỏng hay đặc và màu sắc mà điều chỉnh chế độ ăn uống của mẹ cho phù hợp.
    9. Rốn: thường rụng lúc 1-4 tuần, hiện nay các chuyên gia đều khuyên để hở không cân băng kín nhưng phải rửa rốn đúng và theo dõi rốn có mủ không.




    Các Loại Thuốc Hạ Sốt Cho Trẻ Em

    Kết quả hình ảnh cho sốt trẻ em
    SỐT Ở TRẺ SƠ SINH VÀ TRẺ NHỎ

    Sốt nghĩa là nhiệt độ cơ thể cao hơn mức bình thường. Trẻ nhỏ được cho là bị sốt nếu:
    • Nhiệt độ bên trong hậu môn cao hơn 38 độ C
    • Nhiệt độ ở miệng cao hơn 37.8 độ C
    • Nhiệt độ ở nách cao hơn 37 độ C
    • Nhiệt độ ở tai cao hơn 38 độ C
    (Cách đo này không khả thi với các bé dưới 6 tháng tuổi)

    • Kiểm tra sốt bằng tay cũng là cách xác định sốt ở trẻ vì khi đó bạn sẽ cảm nhận độ nóng ở trẻ rõ hơn. Cách kiểm tra này hiệu quả hơn chúng ta nghĩ, nhưng nếu tính đưa trẻ đến bác sĩ, thì hãy sử dụng nhiệt kế để có số liệu cụ thể.
    • Nhiệt độ trung bình của cơ thể được đo ở miệng là 36.5 độ C.
    • Nhiệt độ đo ở miệng thông thường có thể thay đổi vào khoảng thấp hơn 35.5 độ C vào buổi sáng và 37.5 độ C vào buổi chiều. Nhiệt độ tăng nhẹ từ 38 đến 38.5 độ C, có thể là do vận động, bận quần áo dày, tắm nước nóng hoặc thời tiết nóng.
    • Đồ ăn hoặc đồ uống nóng cũng có thể làm tăng nhiệt độ miệng. Nếu nghi ngờ một dấu hiệu nào đó tác động đến nhiệt độ cơ thể của trẻ, hãy kiểm tra lại nhiệt độ 30 phút một lần.

    NGUYÊN NHÂN GÂY SỐT

    • Sốt là một triệu chứng, không phải là bệnh. Nó là phản ứng bình thường của cơ thể trước một sự nhiễm khuẩn (virus, vi khuẩn) nào đó. Sốt giúp chống lại sự nhiễm trùng bằng cách khởi động hệ miễn dịch của cơ thể. Hầu hết các cơn sốt (từ 37.8 đến 40 độ C) mà trẻ mắc phải đều không nguy hiểm.
    • Các nguyên nhân phần lớn là từ các bệnh do virus như cảm lạnh hoặc cảm cúm. Một vài nguyên nhân là do bệnh từ vi khuẩn mang lại như viêm họng hoặc nhiễm trùng đường tiểu. Mọc răng đa số không phải là nguyên nhân gây sốt.


    SỐT BAO LÂU SẼ HẾT?

    • Hầu hết các cơn sốt do virus sẽ kéo dài khoảng 3 đến 5 ngày. Thông thường, độ nặng nhẹ của sốt không liên quan đến sự nghiêm trọng của bệnh. Hành vi cư xử của trẻ mới nói lên trẻ bệnh nặng hay nhẹ. Sốt không phải gây tác hại kéo dài. Tổn thương não xuất hiện chỉ khi nhiệt độ cơ thể cao hơn 42 độ C.

    UỐNG THUỐC HẠ SỐT ĐÚNG CÁCH VÀ LIỀU LƯỢNG Ở TRẺ

    Trẻ sốt dưới 38,5 độ không cần uống thuốc hạ sốt, chỉ cần cho mặc đồ thoáng mát là được, vì bố mẹ ông bà hay sốt ruột cứ cho con uống theo ý mà không biết trẻ nhỏ uống paracetamol vượt quá liều lượng và thời gian cho phép sẽ làm hại gan, ảnh hưởng đến chuyển hóa ở gan.
    Paracetamol làm hạ thân nhiệt ở người bị sốt, nhưng rất hiếm khi làm hạ nhiệt độ ở người bình thường. Và không có tác dụng chống viêm. Khi uống vào, paracetamol được hấp thu nhanh chóng hoàn toàn qua đường tiêu hóa; thức ăn cũng góp một phần làm chậm hấp thu paracetamol.
    Ở trẻ em, liều paracetamol là 10mg đến tối đa là 15mg/kg trọng lượng cơ thể và có thể lặp lại liều như trên sau 4-6 giờ. Thuốc uống hay thuốc đặt hậu môn có tác dụng như nhau và liều lượng dùng như nhau.

    Ví dụ: bé 10kg chỉ uống hay đặt hậu môn liều lượng 100mg, tối đa là 150mg (sốt cao đến 39,5 độ C).


    KHI NÀO CẦN CHO TRẺ ĐI KHÁM (ĐẾN BỆNH VIỆN)

    NÊN ĐI NGAY LẬP TỨC nếu:
    • Con dưới 3 tháng tuổi.
    • Sốt cao trên 40 độ C và tình hình không được cải thiện sau 2h uống thuốc hạ sốt.
    • Con có biểu hiện rất mệt mỏi (sốt thường đi cùng với nhức đầu, chóng mặt, cứng gáy, thở khó khăn, nổi ban hoặc không chịu uống nước).


    CHO CON ĐI KHÁM TRONG VÒNG 24 giờ nếu:
    • Con từ 3 đến 6 tháng tuổi (trừ khi sốt do mũi chích ngừa)
    • Con bị sốt kéo dài hơn 3 ngày.
    • Con đã hết sốt hơn 24 tiếng nhưng sau đó lại bị sốt lại và sốt cao hơn 39 độ.


    Trên thị trường hiện có 3 dạng thuốc hạ sốt thông dụng được các bậc phụ huynh chọn sử dụng.
    – Dạng gói bột thường có mùi hương thơm của các loại trái cây như cam, chanh, dâu…nhất là có vị ngọt rất hợp với sở thích của trẻ, được sử dụng rất tiện lợi chỉ cần pha với nước sôi nguội là có thể cho trẻ uống ngay, hiệu quả hạ sốt nhanh vì dược chất paracetamol dễ dàng được hấp thụ từ dạ dày và ruột vào máu chỉ sau khi uống khoảng 15 phút – 30 phút.

    Dạng gói bột được bào chế dưới những hàm lượng thông thường là 80 mg, 150 mg và 250 mg. Tùy theo cân nặng của trẻ chúng ta sẽ tính được khá chính xác liều lượng cần dùng cho trẻ, ví dụ trẻ cân nặng 10 kg phụ huynh sẽ cho trẻ uống một gói thuốc bột hạ sốt hàm lượng paracetamol 150 mg.
    – Dạng si rô rất dễ sử dụng cho trẻ vì liều lượng thuốc rất dễ lường với hàm lượng thông dụng là paracetamol 80mg/5ml, 150mg/5ml hoặc 250mg/5ml. Với nhiều mùi vị khác nhau sẽ giúp trẻ uống thuốc được thuận lợi hơn và hiệu quả hạ sốt cũng tương tự với loại hạ sốt dạng gói bột.

    – Dạng viên đạn (nhét hậu môn) được bào chế với 3 hàm lượng thông thường là 80 mg, 150 mg và 300 mg. Dạng 80 mg dùng cho trẻ từ 4 – 6kg, dạng 150 mg dùng cho trẻ có cân nặng từ 7 – 12kg và dạng viên đạn 300 mg dùng cho trẻ từ 13-24kg.

    Cần lưu ý dạng tọa dược qua đường hậu môn thường có tác dụng hạ sốt chậm hơn dạng uống (gói bột thơm hoặc si rô) khoảng 15 – 20 phút vì khả năng hấp thụ dược chất paracetamol từ trực tràng vào máu sẽ mất nhiều thời gian hơn.
    – Khi trẻ có thể uống được thì phụ huynh sử dụng dạng gói bột hoặc si rô hạ sốt pha với nước cho trẻ uống. Ở dạng này thuốc sẽ được hấp thu tốt hơn, hiệu quả hạ sốt nhanh hơn và đạt được độ an toàn cao nhất khi sử dụng.
    – Nếu trẻ sốt li bì, trẻ nôn ói nhiều, trẻ không thể uống được, nhất là những trẻ đang ngủ say mà phụ huynh không muốn đánh thức trẻ, cha mẹ sẽ cho trẻ dùng viên đạn nhét hậu môn để hạ sốt. Đây là cách hạ sốt rất tiện dụng cho trẻ, tuy nhiên cần chú ý liều lượng theo qui định ở trên và việc nhét thuốc vào hậu môn cần tiến hành nhẹ nhàng, cẩn thận để tránh làm tổn thương vùng hậu môn có thể gây nguy hiểm cho trẻ.
    Thuốc hạ sốt hoạt chất là paracetamol có nhiều loại khác nhau về thành phần và hàm lượng, dạng bào chế như:
    Babyplex: thuốc cốm gồm có paracetamol 325mg, vitamin B1, chlorpheniramin maleat, tá dược vừa đủ 3 g. Liều dùng: ngày uống 3-4 lần, mỗi lần như sau: Trẻ dưới 1 tuổi: 1/4 gói, từ 1-5 tuổi: 1/3 gói, từ 5-10 tuổi: 1/2 gói, từ 10-15 tuổi: 1 gói. Hòa thuốc vào chén nhỏ với nước chín, không nên đổ thẳng thuốc vào miệng.
    Panadol trẻ em: viên nhai màu hồng vị dâu chứa 120mg paracetamol. Liều dùng: từ 1-3 tuổi: 1 viên, từ 3-6 tuổi: 1-2 viên, từ 6-12 tuổi: 2 viên. Nếu cần dùng lại sau 4 giờ. Không quá 4 lần/ngày.
    Effe-paracetamol: gói bột sủi gồm có paracetamol 200mg, vitamin C và tá dược. Liều dùng: từ 2-6 tuổi: 1 gói x 3 lần/ngày. Từ 6-15 tuổi: 1-2 gói x 3 lần/ngày. Trên 15 tuổi: 2 gói x 3 lần/ngày.
    Efferalgan 80 mg: mỗi gói có paracetamol 80 mg - thuốc bột sủi bọt. Thường được chỉ định cho trẻ em cân nặng từ 8-15kg.
    Lưu ý: Không dùng thuốc này trong các trường hợp mẫn cảm với paracetamol, bệnh gan nặng, không dung nạp với fructose (vì có sorbitol). Trường hợp cần kiêng muối, hoặc ăn nhạt cần lưu ý vì mỗi gói thuốc có chứa 66 mg natri (phải trừ vào khẩu phần ăn hằng ngày).
    Các trường hợp không dùng được thuốc đạn: dị ứng với paracetamol, bệnh gan nặng, mới bị viêm hậu môn, trực tràng, chảy máu trực tràng, thuốc có thể gây ngứa tại chỗ, tăng theo lần dùng, liều dùng, thời điểm dùng. Khi bị tiêu chảy không dùng viên đạn.

    Thủ tục cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6 tuổi

    Thông tư 29/2008/TT-BLĐTBXH quy định thẻ khám chữa bệnh được sử dụng khi khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở y tế công lập. Thẻ có giá trị sử dụng kể từ ngày cấp thẻ cho đến ngày trẻ đủ bảy mươi hai tháng tuổi và quy định thủ tục cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ dưới sáu tuổi như sau:
    Hình minh họa
    Bước 1: Cha, mẹ hoặc người giám hộ xuất trình giấy khai sinh với UBND cấp xã, phường, thị trấn.
    a. Cha, mẹ, người giám hộ xuất trình giấy khai sinh (bản chính hoặc bản sao có chứng thực) với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em thường trú để làm căn cứ cấp Thẻ khám chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi.
    b. Trường hợp trẻ em chưa có giấy khai sinh thì cha, mẹ, người giám hộ có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em; Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em cùng với việc cấp Thẻ khám chữa bệnh. Đối với những khu vực vùng sâu, vùng xa điều kiện đi lại khó khăn thì cán bộ Tư pháp hộ tịch có trách nhiệm phối hợp với cán bộ ngành Lao động - Thương binh và Xã hội hỗ trợ Ủy ban nhân dân cấp xã làm thủ tục đăng ký khai sinh cho trẻ và cấp Thẻ khám chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi.
    c. Trường hợp trẻ em chưa có Thẻ khám chữa bệnh, nhưng cần đi khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở y tế công lập thì cần phải xuất trình giấy khai sinh hoặc giấy chứng sinh hoặc giấy chứng nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã làm căn cứ cho các cơ sở y tế công lập không thu tiền khám chữa bệnh của trẻ em.
    d. Trường hợp trẻ em chưa có Thẻ khám chữa bệnh, chưa có giấy khai sinh, không có giấy chứng sinh, nhưng cần đi khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở y tế công lập thì Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm xác nhận về họ, tên, ngày, tháng, năm sinh của trẻ em hiện đang thường trú tại địa bàn xã làm căn cứ cho các cơ sở y tế công lập không thu tiền khám chữa bệnh của trẻ em.
    e. Đối với trẻ em dưới 6 tuổi không đăng ký thường trú tại xã/phường/thị trấn nhưng đang sinh sống trên địa bàn xã/phường/thị trấn thì ngoài giấy khai sinh phải có giấy xác nhận của thôn/xóm hoặc Ban quản lý khu dân cư hiện đang thường trú ở thôn/xóm hoặc khu dân cư để làm căn cứ cấp Thẻ khám chữa bệnh cho trẻ em.
    f. Đối với trẻ em đang phải điều trị bệnh tại bệnh viện mà đến thời gian hết hạn sử dụng Thẻ thì trẻ vẫn được tiếp tục hưởng chế độ khám chữa bệnh không phải trả tiền cho đến hết đợt điều trị đó.
    Bước 2: Phòng Lao động thương binh và xã hội tiếp nhận, kiểm tra danh sách do xã, phường, thị trấn chuyển lên theo mẫu quy định.
    • Trường hợp thủ tục hồ sơ đã đầy đủ thì tiếp nhận và làm thủ tục in cấp thẻ.
    • Trường hợp thủ tục còn thiếu hoặc có sự sai sót thì hướng dẫn cơ sở về làm lại, bổ sung theo đúng quy định.

    Bước 3: Ký cấp thẻ và giao lại cho UBND các xã, phường, thị trấn trả tận tay cho đối tượng trực tiếp đi làm thủ tục.